Cải cách Taika và bộ luật Ritsuryo Thời kỳ Asuka

Cải cách Taika

Khoảng 20 năm sau khi Thánh Đức Thái tử, Soga no Umako và Nữ hoàng Suiko lần lượt qua đời, những cuộc vận động tranh giành quyền lực trong triều đình đã dẫn đến một cuộc lật đổ sự kiểm soát củagia tộc Soga vào năm 645. Cuộc lật đổ do Hoàng tử Naka no OeNakatomi no Kamatari cầm đầu giành lại quyền kiểm soát triều chính từ tay gia tộc Soga và mở đầu cho cuộc cải cách Taika (Taika no Kaishin).

Giai đoạn từ 645 đến 649 trong lịch sử Nhật Bản do đó còn được gọi là thời kỳ Taika, có nghĩa là "Đại hóa" (Sự thay đổi lớn). Sự kiện dẫn đến cuộc cải cách Taika được gọi là sự biến năm Ất Tỵ, cuộc đảo chính năm 645.

Mặc dù không tạo ra một định chế pháp luật, cải cách Taika, thông qua nhiều cải biến quan trọng, đã đặt nền tảng cho bộ luật ritsuryo là một hệ thống các cơ chế vận hành xã hội, bộ máy hành chính và tài chính của Nhật Bản từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10. Ritsu là bộ hình luật, còn ryo là bộ luật hành chính. Kết hợp lại, chúng tạo thành một bộ luật hoàn chỉnh dựa bao gồm những điều khoản riêng rẽ đã được thừa nhận từ thời cải cách Taika.

Cải cách Taika chịu nhiều ảnh hưởng từ Trung Quốc và bắt đầu với việc phân chia lại đất đai hướng đến việc kết thúc hệ thống sở hữu đất đai hiện hành của các lãnh chúa lớn cũng như sự kiểm soát của họ với các lãnh địa và các làng nghề. Đất tư và tá điền trở thành đất công và nông dân tự do khi triều đình tìm cách kiểm soát toàn bộ Nhật Bản và buộc mọi người dân phải phục tùng chính quyền trung ương. Đất đai không còn được cha truyền con nối nữa mà chuyển sang cho nhà nước khi người chủ đất chết đi. Các loại thuế đánh dựa trên thu hoạch nông nghiệp và đánh vào vải, bông, lụa, các hầm mỏ cũng như các sản phẩm khác. Ngoài ra, nông dân còn phải đi phu xây dựng các công trình quân sự hoặc công cộng. Hệ thống cha truyền con nối ở các lãnh địa của các lãnh chúa bị hủy bỏ thay bằng một hệ thống mới với ba thừa tướng trợ giúp công việc cho nhà vua được thiết lập bao gồm Tả đại thần, Hữu đại thần và Thái chính đại thần.

Đất nước gồm các lãnh thổ gọi là châu (州, shū) và quốc (国, kuni). Quốc là lãnh thổ tự trị, do các lãnh chúa đứng đầu, còn Châu là đơn vị hành chính trực thuộc triều đình, đứng đầu có châu mục do triều đình chỉ định. Các châu lại được chia thành các quận (郡, gun) và huyện (県, agata).

Naka no Oe tiếp tục là Thái tử nhiếp chính, trong khi Kamatari được ban cho họ mới là Fujiwara, như một phần thưởng cho những đóng góp của ông cho triều đình. Dòng họ Fujiwara sau đó trở thành một dòng họ quý tộc lâu đời ở Nhật Bản. Một thay đổi lâu đời khác là việc đổi tên nước thành Nhật Bản (日本), hoặc đôi khi là Dai Nippon (大日本, Đại Nhật Bản) trong các tài liệu ngoại giao và các biên niên sử. Năm 662, Naka no Oe chính thức lên ngôi vua thay chú và mẹ, trở thành Thiên hoàng Tenji. Hoàng đế Nhật Bản cũng bắt đầu được gọi là Thiên Hoàng kể từ đó. Ngôi vị này nhắm mục đích nâng cao uy thế của gia tộc Yamato và nhấn mạnh nguồn gốc Thần thánh của Hoàng gia với hy vọng giữ Hoàng tộc đứng trên mọi xung đột chính trị. Tuy vậy, trong nội bộ Hoàng tộc, tranh quyền đoạt vị vẫn tiếp diễn khi anh và con trai của Thiên Hoàng tranh giành ngôi báu trong chiến tranh Jinshin. Người anh, sau này lấy niên hiệu là Thiên hoàng Tenmu, củng cố cải cách Tenji và tập trung quyền lực vào trong tay triều đình.

Hệ thống Ritsuryō

Hệ thống ritsuryō được lập thành nhiều mức. Bộ luật Ōmi (近江令 (Cận Giang lệnh), Bộ luật Ōmi?), được đặt tên theo nơi đóng đô của triều đình Nhật hoàng Tenji, được hoàn thành năm 668. Những sự hệ thống hóa cao hơn được Nhật hoàng Jito ban bố năm 689 trong Bộ luật Asuka Kiyomihara (飛鳥浄御原令 (Phi Điểu Tịnh Ngự Nguyên lệnh), Bộ luật Asuka Kiyomihara?), đặt theo tên nơi đặt triều đình của cố Nhật hoàng Tenmu. Hệ thống ritsuryō được củng cố thêm và hệ thống lại năm 701 trong Bộ luật Taihō (大宝律令 (Đại Bảo luật lệnh), Taihō Ritsuryō?), mà trừ việc thay đổi chút ít và bỏ đi một số chức năng nghi lễ chính yếu, vẫn còn hiệu lực cho đến năm 1868.[1]

Dù Ritsu (Luật) có nguồn gốc từ hệ thống luật Trung Hoa, Ryō (Lệnh) được sắp xếp theo tập tục địa phương. Vài học giả biện luận rằng hệ thống luật này chủ yếu dựa theo mẫu của Trung Quốc.[2]

Luật Taihō có các điều khoản hình sự theo lối Nho giáo (nhẹ hơn so với các hình phạt khắt khe) và tập quyền trung ương kiểu Trung Quốc qua Thần kỳ quan (神祇官, Jingi-kan?) (Bộ Lễ), với chức năng coi sóc đạo Shinto và nghi lễ triều đình, và Thái chính quan (太政官, Daijō-kan?) (Bộ Công), với tám bộ (để tập trung quyền lực, lễ nghi, sự vụ dân sự, hoàng tộc, pháp lý, quân sự, nhân dân và quốc khố). Mặc dù hệ thống thi cử kiểu Trung Quốc không được áp dụng, ’’Đại Học Liêu’’ (大学寮, Daigaku-Ryō?) được thành lập để đào tạo các quan lại tương lai dựa trên nền tảng Nho giáo cổ điển. Tuy vậy, hệ thống mưu lược cổ điển, ví dụ như dòng dõi quý tộc tiếp tục là tiểu chuẩn chính để lựa chọn các vị trí quan trọng, và tước hiệu sẽ sớm được truyền đời lại. Luật Taihō không đề cập đến việc lựa chọn Quốc Chủ. Vài Nữ hoàng vẫn lên ngôi từ thế kỷ 5 đến 8, nhưng sau năm 770, việc thừa kế chỉ được dành cho đàn ông, thường là cha truyền con nói, mặc dù đôi khi vẫn truyền theo mối quan hệ anh-em hay bác-.[1]

Fujiwara no Fuhito (藤原 不比等 (Đằng Nguyên Bất Tỷ Đẳng), Fujiwara no Fuhito?), con trai của Nakatomi no Kamatari, là một trong những người soạn thảo Taihō Ritsuryō. Theo bộ sử Shoku Nihongi (續日本紀 (Tục Nhật Bản Kỷ), Shoku Nihongi?), hai trong số 19 thành viên của hội đồng phác thảo Luật Taihō là pháp sư Trung Quốc (Shoku-Shugen and Satsu-Koukaku).[3][4] Các pháp sư Trung Quốc cũng giữ vai trò quan trọng như các chuyên gia ngôn ngữ học, và hai lần được Nữ Thiên Hoàng Jitō ban thưởng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thời kỳ Asuka http://www.bookrags.com/Prince_Sh%C5%8Dtoku http://concise.britannica.com/ebc/article-9380953/... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN052... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN082... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN082... http://www.j-texts.com/jodai/shoku1.html http://homepage1.nifty.com/k-kitagawa/data/shoji.h... http://www.mnsu.edu/emuseum/prehistory/japan/asuka... http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/jptoc.html http://www.myj7000.jp-biz.net/clan/03/03008.htm